Khi đi thực hiện siêu âm tuyến giáp, như siêu âm cho các vùng cơ thể khác, người bệnh được khuyến khích mặc quần áo rộng rãi, thoải mái để dễ bộc lộ. Đồng thời, bệnh nhân cũng có thể cần phải cởi bỏ tất cả quần áo và đồ trang sức trong khu vực cổ để dễ kiểm tra toàn bộ bướu giáp.
Ngoài những điều nên trên, người bệnh không cần chuẩn bị khác, vẫn có thể ăn uống, uống thuốc và sinh hoạt như bình thường trước khi đến siêu âm tuyến giáp.
Tuy nhiên, vì siêu âm rất nhạy cảm với những chuyển động, đòi hỏi người bệnh phải nằm yên, nếu trẻ nhỏ hiếu động hoặc dễ quấy khóc sẽ có thể kéo dài quá trình thực hiện. Vì vậy, cha mẹ cần tìm cách trấn an trẻ hay có thể sử dụng một số cách thức giúp trẻ phân tâm và khiến thời gian thực hiện trôi qua nhanh chóng hơn.
Với kỹ thuật siêu âm tuyến giáp, tư thế người bệnh là nằm ngửa cổ trên một chiếc gối sau vai, đôi khi cần phải nghiêng cổ sang hai bên theo y lệnh, vừa để cải thiện chất lượng hình ảnh, vừa giúp ghi nhận hình ảnh tuyến giáp được toàn diện. Sau khi bộc lộ được vùng cổ, bác sĩ siêu âm sẽ bôi một loại gel và đặt đầu dò, di chuyển qua lại trên khu vực quan tâm cho đến khi thu được hình ảnh mong muốn.
Sau khi đánh giá đã thu nhận đầy đủ hình ảnh về cấu trúc nhu mô tuyến giáp, mạch máu tuyến giáp cũng như các vùng xung quanh, lớp gel này sẽ được bôi sạch khỏi da và người bệnh có thể ngồi dậy ra về, sinh hoạt như bình thường.
Tuyến giáp bình thường bao gồm hai thùy và một eo nối ở giữa hai thùy. Kích thước, hình dạng và khối lượng tuyến giáp thay đổi theo tuổi và giới tính, bình thường là 40-60 mm theo chiều dọc và đường kính trước sau là 13-18mm ở nhóm dân số trưởng thành. Thể tích tuyến giáp bình thường là 10-15ml đối với nữ và 12-18ml đối với nam.
Tuyến giáp có mối quan hệ với các cấu trúc xung quanh là cơ ức đòn chũm và cơ cổ ở phía trước; khí quản, thực quản và cơ dọc giữa ở phía sau; các động mạch cảnh chung và tĩnh mạch cảnh nằm hai bên.
Siêu âm Doppler mạch máu tuyến giáp cũng rất hữu ích để đánh giá tình trạng mạch máu của tuyến giáp và các vùng lân cận. Tuyến giáp là một cấu trúc giàu sự chi phối mạch máu, được cung cấp bởi các động mạch giáp trên và giáp dưới. Phổ vận tốc bình thường trong các động mạch tuyến giáp nằm trong khoảng 15-30cm/giây nhưng có thể tăng trong một số bệnh lý nhất định (như bệnh Graves), lên trên 100cm/giây.
5. Hình ảnh các bệnh lý tuyến giáp trên siêu âm tuyến giáp
5.1 Dị tật bẩm sinh trong phát triển của tuyến giáp
Nguyên sinh tuyến giáp phát triển từ vị trí trung gian ở tầng của hầu nguyên thủy trong tuần thứ 4 của thai kỳ, đi xuống qua phần đường giữa trước của cổ để đến vị trí cuối cùng bên dưới sụn tuyến giáp vào tuần thứ 7.
Đôi khi, phần còn lại của mô tuyến giáp có thể tồn tại dọc theo đường di chuyển, làm phát sinh thêm một thùy tuyến giáp quan sát thấy trên siêu âm. Mặt khác, sự tồn tại của ống tuyến giáp bẩm sinh sẽ dẫn đến hình thành u nang tuyến giáp như một tổn thương giảm âm được xác định rõ với tăng cường sóng âm từ phía sau. Ngược lại, nếu quan sát thấy cấu trúc này tăng âm thì có thể u nang bị xuất huyết hoặc nhiễm trùng.
5.2 Nhân giáp
Tỷ lệ mắc rất cao, từ 50% đến 70%, và sự phát triển của các nhân giáp có mối tương quan trực tiếp với tuổi của bệnh nhân và được coi là một phần của quá trình trưởng thành bình thường của tuyến giáp.
Nguyên nhân phổ biến nhất của nhân giáp lành tính là tăng sản nốt, với nốt đơn độc hay đa nhân. Lúc này, độ phản âm đồng nhất sẽ là tiêu chí đáng tin cậy nhất để xác định tính lành tính của nhân giáp. Các tiêu chí lành tính khác là kích thước nhân trên 1cm, có quầng giảm âm xung quanh như bao xơ hoặc tăng âm do vôi hóa.
5.3 Ung thư giáp
Về mặt mô học, các khối u ác tính của tuyến giáp được phân loại là ung thư biểu mô nhú, ung thư biểu mô nang, ung thư biểu mô tủy, ung thư biểu mô không sản, ung thư hạch và di căn. Độ nhạy của siêu âm tuyến giáp để chẩn đoán một tổn thương ác tính là 83,3%.
Các đặc điểm của siêu âm tuyến giáp giúp hướng đến bệnh lý ác tính bao gồm sự hiện diện của vi vôi hóa (<2mm), xâm lấn tại chỗ, di căn hạch, giảm cường độ tia rõ rệt, rìa không đều, mật độ đặc, không có quầng giảm âm xung quanh nốt và có tính hiệu tăng sinh mạch máu trong nốt.
Đối với các ổ ung thư nguyên phát gây di căn đến tuyến giáp là không thường xuyên, thường gặp là với u hắc tố ác tính, ung thư biểu mô vú và ung thư biểu mô tế bào thận. Dưới siêu âm, nốt di căn giáp biểu hiện như một khối đơn độc hoặc nhiều khối đồng nhất giảm âm mà không có vôi hóa. Tuy nhiên, công cụ xác chẩn cuối cùng nên là sinh thiết.
5.4 Các bệnh tuyến giáp lan tỏa
Các tình trạng phổ biến biểu hiện như phì đại lan tỏa của tuyến giáp bao gồm bướu cổ đa nhân, viêm tuyến giáp Hashimoto, viêm tuyến giáp bán cấp de-Quervain và bệnh Graves. Đặc điểm siêu âm của các bệnh lý này có thể tương tự nhau, dễ gây nhầm lẫn nhưng chúng có bệnh sinh, biểu hiện lâm sàng khác nhau. Do đó, trong từng bệnh cảnh, người bệnh cần được nhận định dựa trên sự tổng hợp của nhiều dữ kiện, bằng chứng khác nhau. Hình ảnh siêu âm tuyến giáp của các bệnh lý này như sau:
-
Bướu đa nhân tuyến giáp: Đây là nguyên nhân phổ biến nhất của sự phì đại không đối xứng lan tỏa của tuyến giáp. Chẩn đoán siêu âm dựa trên việc tìm thấy nhiều nhân trong nhu mô tuyến giáp đã mở rộng lan tỏa với bản chất tăng tín hiệu echo khi phóng to.
-
Bệnh Graves: Đây là một bệnh tự miễn tuyến giáp đặc trưng bởi nhiễm độc giáp. Trên siêu âm, kích thước tuyến giáp sẽ to ra, gấp 2-3 lần kích thước bình thường, giảm âm và không đồng nhất. Hình ảnh Doppler mạch máu tuyến giáp cho thấy dấu hiệu tăng mạch rõ rệt với dòng chảy trong tuyến giáp tăng vận tốc cả trong tâm thu và tâm trương. Trái ngược với bệnh viêm tuyến giáp Hashimoto, hình ảnh tuyến giáp của bệnh Graves có thể trở lại trạng thái bình thường khi bệnh đã kiểm soát ổn.
-
Viêm tuyến giáp Hashimoto: Đây cũng có bệnh sinh là do rối loạn tự miễn dịch, như kết cục là dẫn đến sự phá hủy tuyến giáp và gây suy giáp. Siêu âm tuyến giáp thấy kích thước tuyến giáp to lan tỏa, nhu mô thô, không đồng nhất và giảm âm là biểu hiện thường gặp nhất. Khi có sự hiện diện của nhiều nốt nhỏ giảm âm rời rạc, kích thước 1-6 mm, sẽ gợi ý nhiều đến viêm tuyến giáp mãn tính. Các vách ngăn dạng sợi hồi âm tốt có thể tạo ra hình dạng giả nhu mô. Trên siêu âm Doppler mạch máu tuyến giáp cũng có thể cho thấy sự tăng sinh mạch của nhu mô tuyến giáp từ nhẹ đến rõ rệt nên đặc điểm này khó phân biệt với bệnh Graves. Tuy nhiên, các hình ảnh siêu âm tuyến giáp bất thường trong bệnh viêm tuyến giáp của Hashimoto sẽ không bao giờ cải thiện và không thay đổi trong suốt quãng đời còn lại của bệnh nhân.
-
Viêm tuyến giáp của De Quervain: Hình ảnh siêu âm tuyến giáp cho thấy các vùng giảm âm khu trú đặc trưng giống như bản đồ và kèm theo sự tăng kích thước ở một hoặc cả hai thùy tuyến giáp. Ngoài ra, các hạch bạch huyết xếp dạng chuỗi, sưng to cũng được quan sát thấy ở phần lớn bệnh nhân. Siêu âm Doppler màu cho thấy lưu lượng máu giảm hoặc không có trong các vùng nhu mô giảm âm. Tuy nhiên, tuyến giáp có thể phục hồi các đặc điểm này trên siêu âm một cách hoàn toàn trong vài tuần đến vài tháng.
-
Viêm tuyến giáp cấp tính: Bệnh lý này hiếm gặp và xảy ra do nhiễm trùng cấp tính. Trên siêu âm tuyến giáp, thùy bị ảnh hưởng sẽ xuất hiện không đồng nhất và giảm âm; cũng có thể thấy áp xe và hình thành u nang.
-
Viêm tuyến giáp xơ mãn tính hay viêm tuyến giáp xơ xâm lấn: Đây là loại bệnh tuyến giáp kiểu viêm hiếm gặp nhất. Tuyến giáp dần bị thay thế bởi các mô liên kết dạng sợi và trở nên cực kỳ cứng. Trên siêu âm, viêm tuyến giáp loại này có thể biểu hiện như một quá trình giảm âm lan tỏa với các giới hạn không xác định và xơ hóa rõ rệt.
Tóm lại, siêu âm tuyến giáp là phương thức hình ảnh cơ bản ưu tiên thực hiện để đánh giá các nhân giáp được tìm thấy khi khám lâm sàng hoặc tình cờ phát hiện qua xét nghiệm hình ảnh khác. Với các đặc điểm của nhân giáp trên siêu âm, bản chất của những cấu trúc này sẽ được xác định, từ đó định hướng theo dõi qua thời gian hay lập kế hoạch khảo sát chuyên sâu hơn cho người bệnh.